50 triệu người trên thế giới mắc căn bệnh dễ gây tàn phế và tử vong sớm này
Động kinh là một bệnh mạn tính, không lây nhiễm phổ biến của hệ thần kinh trưng ương, biểu hiện trên lâm sàng bởi những cơn động kinh - là những cơn ngắn (thường dưới 5 phút), khởi phát đột ngột, có tính định hình, có xu hướng tái phát. Đây là biểu hiện của sự phóng điện đột ngột, quá mức, đồng bộ của một nhóm tế bào thần kinh ở vỏ não. Lâm sàng bao gồm các rối loạn về vận động, cảm giác, giác quan, tâm thần, thần kinh thực vật tùy thuộc vị trí não bị kích thích.
Động kinh thường được chia thành 3 nhóm:
– Động kinh tự phát: Không phát hiện được tổn thương thực thể ở não
– Nhóm động kinh triệu chứng: Động kinh triệu chứng là do tổn thương não đã cố định hoặc tiến triển. Nguyên nhân gây động kinh triệu chứng liên quan đến các yếu tố gây tổn thương não từ giai đoạn thai nhi, trong giai đoạn phát triển tâm lý, vận động và các bệnh lý mắc phải trong và sau giai đoạn trưởng thành. Có thể nói nguyên nhân của động kinh liên quan đến toàn bộ bệnh học thần kinh từ sang chấn sọ não, u não, bệnh lý mạch máu não.
Nguyên nhân động kinh ở người trưởng thành chủ yếu là tai biến mạch não (15 – 42%), u não nguyên phát hoặc thứ phát (10 – 20%), do nhiễm độc chuyển hóa (10%) và chấn thương sọ – não (5 – 10%). Còn 5 -30% trường hợp không xác định được nguyên nhân. Điều đáng lưu ý là các cơn động kinh do nguồn gốc tai biến mạch não và u não hay xảy ra ở tuổi trên 40, do dị dạng mạch thường gặp ở tuổi trẻ.
– Động kinh căn nguyên ẩn: Động kinh căn nguyên thể ẩn nguyên nhân bị che dấu. Bệnh sử, thăm khám lâm sàng, các xét nghiệm cận lâm sàng, không chỉ ra sự tổn thương ở não.
Ước tính, khoảng 0,75% dân số Việt Nam bị động kinh, cao hơn trung bình thế giới. Ảnh minh họa.
Dễ nhầm lẫn với cơn co giật của bệnh lý khác
Chẩn đoán động kinh chủ yếu dựa vào đặc điểm lâm sàng của cơn động kinh. Bác sĩ chuyên khoa về thần kinh cần khai thác tỉ mỉ về đặc điểm của cơn và cần phải phân biệt với các cơn co giật không phải động kinh do căn nguyên tâm lý, cơn hạ đường huyết, hạ canxi huyết, các bệnh lý về tim mạch, huyết áp…
Điện não đồ là thăm dò cận lâm sàng quan trọng trong chẩn đoán động kinh. điện não đồ cung cấp những thông tin để phân biệt được dạng cơn, hoặc giúp xác định được bản chất của cơn trong một số trường hợp. Ngoài ra điện não đồ rất có giá trị với các tổn thương khó nhìn thấy hoặc tổn thương mới ở mức độ chức năng. Đặc biệt với động kinh nguyên phát hoặc động kinh căn nguyên ẩn, điện não đồ chứng tỏ giá trị hơn hẳn so với các phương pháp hình ảnh học.
Khi phối hợp với điện tim, điện não đồ giúp thầy thuốc chẩn đoán phân biệt được một cơn động kinh với một trường hợp ngất do bệnh lý tim mạch, chẩn đoán phân biệt những trường hợp động kinh không co giật, hay phân biệt một cơn động kinh cục bộ phức hợp với một cơn vắng. Một số xét nghiệm cận lâm sàng khác như chụp cắt lớp vi tính não, chụp cộng hưởng từ não, xét nghiệm máu … giúp chẩn đoán phân biệt và chẩn đoán nguyên nhân động kinh.
Vấn đề chẩn đoán động kinh thường không khó với những trường hợp điển hình, trong đó kiến thức của thầy thuốc về động kinh đóng một vai trò quan trọng trong việc chẩn đoán đúng và điều trị hợp lý. Nếu được chẩn đoán và điều trị đúng, 70% bệnh nhân khống chế được cơn động kinh. Nhưng trên thực tế có tới 80-90% các trường hợp động kinh sống ở các nước đang phát triển không nhận được sự điều trị phù hợp.
Bệnh nhân động kinh cần lưu ý khi dùng thuốc, tuân theo chỉ định chặt chẽ của bác sĩ. Ảnh minh họa.
Điều trị thế nào?
Điều trị động kinh hiện nay chủ yếu vẫn là điều trị triệu chứng nhằm mục đích cắt cơn với các thuốc kháng động kinh. Bên cạnh đó còn có các phương pháp khác như kích thích dây X, điều trị bằng phẫu thuật, điều chỉnh chế độ ăn uống và sinh hoạt…
Ngoài ra cũng cần điều trị tâm lý cho bệnh nhân, điều trị nguyên nhân và điều trị các rối loạn do cơn động kinh gây nên.
Việc lựa chọn thuốc kháng động kinh cần chọn loại thuốc kiểm soát được cơn, hạn chế được tác dụng phụ của thuốc, khuyến khích sử dụng một loại thuốc để kiểm soát cơn và nâng dần liều để đạt được liều tác dụng. Ngoài ra thuốc phải có giá thành hợp lý để bệnh nhân có thể sử dụng lâu dài và có thể mua được dễ dàng tại nơi sinh sống.
Cần đặc biệt lưu ý khi sử dụng thuốc kháng động kinh cho phụ nữ có thai vì các thuốc kháng động kinh làm tăng nguy cơ dị tật lên gấp 2 lần so với người bình thường. Cần tránh sử dụng các thuốc hay gây dị tật cho thai nhi như valproat (gây dị tật ống thần kinh), phenytoin (gây dị tật hàm mặt)…
Việc phẫu thuật điều trị động kinh cũng đang được nghiên cứu áp dụng ở một số bệnh viện tuyến trung ương như BV Nhi Trung ương, Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức đối với những trường hợp động kinh kháng trị.
Theo ước tính của Liên hội Quốc tế chống Động kinh (ILAE) năm 1996, có khoảng 50 triệu người trên thế giới mắc căn bệnh này và chủ yếu sống ở các nước đang phát triển, mỗi năm có 16 – 51/100.000 trường hợp phát hiện động kinh mới. Nếu không được điều trị, động kinh sẽ gây tàn phế và thường đưa đến tử vong sớm.
Theo đánh giá của Tổ chức Y tế thế giới, động kinh chiếm 1% gánh nặng về kinh tế thế giới do các bệnh gây ra, tương tự như ung thư phổi ở đàn ông, hay ung thư vú ở phụ nữ. Tỷ lệ mắc động kinh ở Châu Mỹ La Tinh (10/1.000) cao hơn gấp hai lấn so với Bắc Mỹ và Châu Âu.
Ở Hoa Kỳ, các nghiên cứu báo cáo có khoảng 2 triệu người mắc động kinh, 3% dân số Hoa Kỳ có triệu chứng động kinh trong cuộc đời của họ.
Ở Châu Á tỷ lệ hiện mắc dao động giữa 4 – 10/1.000 người: như Trung Quốc là 7/1.000, ở Pakistan là 9,9/1.000, ở Việt Nam tỷ lệ này là 4,9 hoặc 7,5/1.000 người tùy từng vùng.
Theo một nghiên cứu của Nguyễn Anh Tuấn và cộng sự năm 2008 tiến hành trên 50.000 dân tại Ba Vì, Hà Nội, tỷ lệ mắc động kinh ở Việt Nam khoảng 4,4/1.000 người.
Thông tư quy định định mức kinh tế - kỹ thuật dịch vụ y tế dự phòng về lĩnh vực phòng, chống bệnh do ký sinh trùng, côn trùng tại cơ sở y tế công lập
Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành Thông tư số 05/2025/TT-BYT ngày 17 tháng 01 năm 2025 quy định định mức kinh tế - kỹ thuật dịch vụ y tế dự phòng về lĩnh vực phòng, chống bệnh do ký sinh trùng, côn trùng tại cơ sở y tế công lập. Thông tư này quy định định mức kinh tế - kỹ thuật dịch vụ y tế dự phòng về lĩnh vực phòng, chống bệnh do ký sinh trùng, côn trùng tại cơ sở y tế công lập.
Kế hoạch tăng cường công tác y tế đảm bảo đón Tết Nguyên Đán Ất Tỵ 2025
Sở Y tế tỉnh Quảng Ninh xây dựng Kế hoạch triển khai công tác y tế phục vụ Tết Nguyên đán Ất Tỵ 2025 diễn ra từ ngày 25/01/2025 đến hết ngày 02/02/2025, cụ thể như sau:
DỰ PHÒNG LÂY NHIỄM HIV, VIÊM GAN B, GIANG MAI TỪ MẸ SANG CON.
Hằng năm, trên thế giới tỉ lệ trẻ sinh ra bị nhiễm hoặc có nguy cơ lây nhiễm HIV, viêm gan B, giang mai từ mẹ khá cao. Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới, khu vực Tây Thái Bình Dương mỗi năm có khoảng 180.000 trẻ bị nhiễm viêm gan vi rút B, 13.000 trẻ bị nhiễm giang mai và 1.400 trẻ bị nhiễm HIV.
Phòng ngừa những bệnh thường gặp trong mùa đông xuân
Thời tiết đông xuân lạnh ẩm không chỉ tạo điều kiện cho các loại virus, vi khuẩn phát triển mà còn làm tăng nguy cơ bùng phát dịch bệnh, đặc biệt là các bệnh lây truyền qua đường hô hấp và tiêu hóa; thời điểm này thường diễn ra nhiều lễ hội, mọi người gia tăng tiếp xúc gần nên có nguy cơ bùng phát dịch bệnh càng cao. Mọi người cần trang bị một số kiến thức cơ bản về dịch bệnh mùa đông xuân như:
Hội nghị Tổng kết công tác phòng chống HIV/AIDS năm 2024, định hướng hoạt động năm 2025
Chiều ngày 30/12/2024, Sở Y tế Quảng Ninh tổ chức Hội nghị Tổng kết công tác phòng, chống HIV/AIDS tỉnh năm 2024 và triển khai nhiệm vụ 2025.
Bệnh sởi nguy hiểm như thế nào?
Bệnh sởi là một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở trẻ dưới 5 tuổi, có khả năng bùng phát thành dịch lớn do khả năng lây lan mạnh qua đường hô hấp.
Bộ Y tế khuyến cáo về bệnh sởi: Tiêm vắc xin là biện pháp hữu hiệu để phòng bệnh
Bệnh sởi chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, dễ lây lan qua đường hô hấp qua các giọt bắn của người mắc bệnh hoặc có thể qua tiếp xúc trực tiếp, qua bàn tay bị nhiễm dịch tiết của người bệnh.
Phường Hà Phong: Truyền thông, phổ biến kiến thức về chăm sóc sức khỏe người cao tuổi
Ngày 05/10/2024, Trạm Y tế phường Hà Phong, thành phố Hạ Long phối hợp với các tổ chức hội, đoàn thể tổ chức truyền thông, hướng dẫn chăm sóc sức khoẻ, kỹ năng phòng bệnh ở người cao tuổi tại các khu phố trên địa bàn.
Điều trị dự phòng sau phơi nhiễm HIV
Điều trị dự phòng sau phơi nhiễm với HIV (viết tắt là PEP) là dùng thuốc kháng HIV (thuốc ARV) cho những người bị phơi nhiễm với HIV. Việc điều trị sau phơi nhiễm cần được thực hiện càng sớm cáng tốt tốt nhất trong vòng 24 giờ và không muộn hơn 72 giờ sau phơi nhiễm. Phơi nhiễm có thể xảy ra trong môi trường nghề nghiệp và ngoài môi trường nghề nghiệp.
Đặt lịch hẹn tư vấn!
Chuyên gia của chúng tôi sẽ liên hệ trực tiếp với bạn.
- Thông tư quy định định mức kinh tế - kỹ thuật dịch vụ y tế dự phòng về lĩnh vực phòng, chống bệnh do ký sinh trùng, côn trùng tại cơ sở y tế công lập
- Hướng dẫn lựa chọn, bảo quản và tiêu dùng thực phẩm trong dịp tết nguyên đán Ất tỵ 2025
- Ngộ độc rượu và cách phòng tránh ngộ độc rượu
- Kế hoạch tăng cường công tác y tế đảm bảo đón Tết Nguyên Đán Ất Tỵ 2025
- DỰ PHÒNG LÂY NHIỄM HIV, VIÊM GAN B, GIANG MAI TỪ MẸ SANG CON.
- 8 cách phòng bệnh hô hấp khi trời lạnh