Bệnh giãn phế quản
Tổn thương chính là các phế quản bị hủy hoại cấu trúc các sợi cơ, sợi chun và sụn phế quản, do đó làm yếu thành phế quản và phế quản bị giãn ra theo kiểu hình trụ hoặc hình túi và được chia làm 2 loại là giãn phế quản mắc phải và giãn phế quản bẩm sinh.
Giãn phế quản là hậu quả của các bệnh như viêm xoang, viêm tai, viêm mũi, viêm vùng răng miệng, nhiễm khuẩn đường hô hấp, một số bệnh nghề nghiệp...
Giãn phế quản mắc phải
Loại này chiếm tới 90% số bệnh nhân giãn phế quản, thường xảy ra sau khi mắc phải các bệnh sau:
Viêm đường hô hấp kéo dài: giãn phế quản là hậu quả của các bệnh như viêm xoang, viêm tai, viêm mũi, viêm vùng răng miệng, nhiễm khuẩn đường hô hấp, một số bệnh nghề nghiệp... Các bệnh này gây nhiễm trùng ở các phế quản kéo dài và tái phát nhiều lần dẫn đến tổn thương các sợi cơ, sợi chun và sụn phế quản. Đồng thời, các chất xuất tiết ùn tắc lại trong phế quản và gây ra phản xạ ho từ đó gây tăng áp lực trong lòng phế quản kéo dài và dẫn tới giãn phế quản.
Lao phổi: trong bệnh lao phổi sau khi điều trị lành sẽ gây ra các xơ sẹo, sau đó chúng phát triển sẽ gây biến dạng và chít hẹp phế quản, tại đó luôn có tình trạng viêm nhiễm và ứ đọng các chất xuất tiết sẽ dẫn tới tổn thương các cấu trúc thành phế quản, kết hợp với phản xạ ho gây tăng áp lực kéo dài sẽ làm phế quản bị giãn ra. Tùy từng thể lao mà khả năng gây giãn phế quản khác nhau, như lao xơ hang gây giãn phế quản nhiều hơn 4 lần lao hạt và nhiều hơn 11 lần lao thâm nhiễm.
Các bệnh viêm nhiễm vi rút ở phổi và phế quản: các bệnh này gây ho và tăng áp lực trong lòng phế quản kéo dài, lúc đầu, giãn phế quản chỉ là tạm thời nhưng nếu điều trị không tốt thì tổn thương sẽ trở thành không hồi phục và dẫn tới bệnh giãn phế quản.
Các tổn thương gây hẹp phế quản: các bệnh lý gây hẹp phế quản như polip phế quản, dị vật phế quản, các bệnh lý hạch ở rốn phổi như lao hạch, Hodgkin, Lymphosacom... Khi các phế quản bị hẹp sẽ gây ứ đọng trong lòng phế quản và làm cho phế quản bị viêm nhiễm, xuất tiết kéo dài từ đó làm tổn thương cấu trúc thành phế quản, đồng thời sự chít hẹp này cũng gây tăng áp trong lòng phế quản dẫn tới giãn phế quản.
Giãn phế quản do hóa chất: thường gặp ở những người làm việc lâu ngày với các hóa chất bay hơi. Các hóa chất này khi hít phải vào đường hô hấp chúng sẽ gây kích thích, tăng tiết và tổn thương cấu trúc thành phế quản đồng thời gây phản xạ ho và tăng áp trong lòng phế quản nếu kéo dài sẽ dẫn tới giãn phế quản.
Giãn phế quản bẩm sinh
Giãn phế quản bẩm sinh chỉ chiếm khoảng 10% số người mắc bệnh giãn phế quản. Đa số đều thấy ở người trẻ và có kết hợp với bệnh phổi đa nang. Giãn phế quản bẩm sinh thường là loại giãn phế quản hình túi và thường có những tổn thương bẩm sinh khác kèm theo.
Bệnh giãn phế quản thường có các biểu hiện lâm sàng khác nhau vì nó tùy thuộc vào thời gian mắc bệnh, diện rộng của tổn thương và mức độ giãn của phế quản. Tuy nhiên giãn phế quản thường có các dấu hiệu như:
Sốt: người bệnh chỉ sốt ở giai đoạn ứ đọng mủ và đàm trong phế quản do không khạc ra được, thông thường chỉ sốt nhẹ khoảng 380C, có khi đến 39 - 400C. Ngoài những đợt này thì bệnh nhân có thể không sốt.
Người bệnh thường gầy yếu, mệt mỏi, nhức đầu, chán ăn.
Dấu hiệu “ngón tay dùi trống” và “móng tay hình mặt kính đồng hồ”: dấu hiệu này có thể gặp ở khoảng 1/3 số người mắc bệnh giãn phế quản và thường gặp ở những người mắc bệnh lâu ngày, có các rối loạn về chức năng hô hấp và tim mạch.
Ho khạc đàm: đây là triệu chứng nổi bật nhất của bệnh. Người bị giãn phế quản thường bị ho về sáng khạc ra nhiều đàm mủ với số lượng khoảng 100 - 300ml.
Đờm thường có màu vàng của sữa, có khi màu trắng đôi khi có màu xanh và có mùi hôi. Nếu để sau 6 giờ thì sẽ thấy chúng chia thành 2 phần gồm mủ ở dưới và dịch ở trên. Nếu bị nhiễm trùng nặng thì phần dịch có lẫn mủ.
Ho ra máu: khoảng 20 - 50% số người mắc bệnh giãn phế quản có ho ra máu. Số lượng máu ho ra thường ít nhưng cá biệt có trường hợp ho ra máu lượng nhiều. Một số ít trường hợp ho ra máu lẫn đàm.
Đau tức ngực, khó thở: khoảng 50 - 70% số trường hợp có triệu chứng đau tức ngực và 20% có triệu chứng khó thở. Tuy nhiên, các dấu hiệu này thường xuất hiện trong những đợt bội nhiễm nặng.
X-quang phổi có giá trị rất lớn trong chẩn đoán bệnh giãn phế quản.
Soi phế quản: có thể thấy được chỗ chít hẹp trong trường hợp giãn phế quản do bị chít hẹp phế quản. Cho phép tìm được nơi dịch mủ và máu từ các phế quản giãn chảy ra, từ đó có thể sinh thiết niêm mạc phế quản và lấy dịch mủ đi cấy khuẩn và làm kháng sinh đồ.
Cách phòng tránh
Giãn phế quản là bệnh hoàn toàn có thể phòng tránh được, để không xảy ra bệnh giãn phế quản cần thực hiện các biện pháp sau:
- Không được để viêm phế quản, viêm phổi kéo dài hoặc tái diễn. Do vậy, khi mắc các chứng bệnh này cần phải điều trị dứt điểm ngay.
- Cần chú ý tiêm phòng bệnh ho gà, cúm...
- Điều trị tốt bệnh lao phổi.
- Cần lấy bỏ sớm các dị vật ở phế quản khi mắc phải.
Bệnh giãn phế quản hiện nay chủ yếu là điều trị nội khoa để giải quyết triệu chứng bằng cách:
- Dẫn lưu tư thế để mủ và các chất xuất tiết trong phế quản giãn dễ dàng thoát ra ngoài.
- Dùng các thuốc long đàm, sử dụng khí dung có kháng sinh và uống nhiều nước để làm loãng đàm dễ khạc.
- Khi có đợt bội nhiễm phải dùng kháng sinh tích cực theo kháng sinh đồ.
- Tập thở thông qua việc tập vật lý trị liệu.
Ngoài ra còn có thể điều trị ngoại khoa như mổ cắt bỏ thùy phổi hoặc cả lá phổi có giãn phế quản và chỉ mổ khi đã hết đợt bội nhiễm. n
Giãn phế quản thường để lại các biến chứng như: viêm phổi tái diễn ở vùng phế quản giãn, áp-xe phổi, mủ màng phổi, khí thũng phổi, suy hô hấp mãn và tâm phế mãn.
Thông tư quy định định mức kinh tế - kỹ thuật dịch vụ y tế dự phòng về lĩnh vực phòng, chống bệnh do ký sinh trùng, côn trùng tại cơ sở y tế công lập
Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành Thông tư số 05/2025/TT-BYT ngày 17 tháng 01 năm 2025 quy định định mức kinh tế - kỹ thuật dịch vụ y tế dự phòng về lĩnh vực phòng, chống bệnh do ký sinh trùng, côn trùng tại cơ sở y tế công lập. Thông tư này quy định định mức kinh tế - kỹ thuật dịch vụ y tế dự phòng về lĩnh vực phòng, chống bệnh do ký sinh trùng, côn trùng tại cơ sở y tế công lập.
Kế hoạch tăng cường công tác y tế đảm bảo đón Tết Nguyên Đán Ất Tỵ 2025
Sở Y tế tỉnh Quảng Ninh xây dựng Kế hoạch triển khai công tác y tế phục vụ Tết Nguyên đán Ất Tỵ 2025 diễn ra từ ngày 25/01/2025 đến hết ngày 02/02/2025, cụ thể như sau:
DỰ PHÒNG LÂY NHIỄM HIV, VIÊM GAN B, GIANG MAI TỪ MẸ SANG CON.
Hằng năm, trên thế giới tỉ lệ trẻ sinh ra bị nhiễm hoặc có nguy cơ lây nhiễm HIV, viêm gan B, giang mai từ mẹ khá cao. Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới, khu vực Tây Thái Bình Dương mỗi năm có khoảng 180.000 trẻ bị nhiễm viêm gan vi rút B, 13.000 trẻ bị nhiễm giang mai và 1.400 trẻ bị nhiễm HIV.
Phòng ngừa những bệnh thường gặp trong mùa đông xuân
Thời tiết đông xuân lạnh ẩm không chỉ tạo điều kiện cho các loại virus, vi khuẩn phát triển mà còn làm tăng nguy cơ bùng phát dịch bệnh, đặc biệt là các bệnh lây truyền qua đường hô hấp và tiêu hóa; thời điểm này thường diễn ra nhiều lễ hội, mọi người gia tăng tiếp xúc gần nên có nguy cơ bùng phát dịch bệnh càng cao. Mọi người cần trang bị một số kiến thức cơ bản về dịch bệnh mùa đông xuân như:
Hội nghị Tổng kết công tác phòng chống HIV/AIDS năm 2024, định hướng hoạt động năm 2025
Chiều ngày 30/12/2024, Sở Y tế Quảng Ninh tổ chức Hội nghị Tổng kết công tác phòng, chống HIV/AIDS tỉnh năm 2024 và triển khai nhiệm vụ 2025.
Bệnh sởi nguy hiểm như thế nào?
Bệnh sởi là một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở trẻ dưới 5 tuổi, có khả năng bùng phát thành dịch lớn do khả năng lây lan mạnh qua đường hô hấp.
Bộ Y tế khuyến cáo về bệnh sởi: Tiêm vắc xin là biện pháp hữu hiệu để phòng bệnh
Bệnh sởi chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, dễ lây lan qua đường hô hấp qua các giọt bắn của người mắc bệnh hoặc có thể qua tiếp xúc trực tiếp, qua bàn tay bị nhiễm dịch tiết của người bệnh.
Phường Hà Phong: Truyền thông, phổ biến kiến thức về chăm sóc sức khỏe người cao tuổi
Ngày 05/10/2024, Trạm Y tế phường Hà Phong, thành phố Hạ Long phối hợp với các tổ chức hội, đoàn thể tổ chức truyền thông, hướng dẫn chăm sóc sức khoẻ, kỹ năng phòng bệnh ở người cao tuổi tại các khu phố trên địa bàn.
Điều trị dự phòng sau phơi nhiễm HIV
Điều trị dự phòng sau phơi nhiễm với HIV (viết tắt là PEP) là dùng thuốc kháng HIV (thuốc ARV) cho những người bị phơi nhiễm với HIV. Việc điều trị sau phơi nhiễm cần được thực hiện càng sớm cáng tốt tốt nhất trong vòng 24 giờ và không muộn hơn 72 giờ sau phơi nhiễm. Phơi nhiễm có thể xảy ra trong môi trường nghề nghiệp và ngoài môi trường nghề nghiệp.
Đặt lịch hẹn tư vấn!
Chuyên gia của chúng tôi sẽ liên hệ trực tiếp với bạn.
- Thông tư quy định định mức kinh tế - kỹ thuật dịch vụ y tế dự phòng về lĩnh vực phòng, chống bệnh do ký sinh trùng, côn trùng tại cơ sở y tế công lập
- Hướng dẫn lựa chọn, bảo quản và tiêu dùng thực phẩm trong dịp tết nguyên đán Ất tỵ 2025
- Ngộ độc rượu và cách phòng tránh ngộ độc rượu
- Kế hoạch tăng cường công tác y tế đảm bảo đón Tết Nguyên Đán Ất Tỵ 2025
- DỰ PHÒNG LÂY NHIỄM HIV, VIÊM GAN B, GIANG MAI TỪ MẸ SANG CON.
- 8 cách phòng bệnh hô hấp khi trời lạnh