Đái tháo đường: Gia tăng nhanh và trẻ hóa
Cập nhật: 14/11/2016 | 10:07:00 AM
Tuy tỷ lệ ĐTĐ của Việt Nam không cao nhất thế giới, nhưng Việt Nam lại có 3 yếu tố nguy cơ:Tốc độ phát triển nhanh nhất thế giới; Người bệnh đang “trẻ hóa” nhiều và Nhận thức của cộng đồng về đái tháo đường còn rất thấp.
Ngày Đái tháo đường thế giới được được Liên đoàn Đái tháo đường quốc tế và các hiệp hội thành viên như Hoa Kỳ, Anh, Úc, Canada, Nam Phi, New Zealand, Ấn Độ, Việt Nam…tổ chức vào ngày 14 tháng 11 hằng năm nhằm tăng cường nhận thức về căn bệnh, nguy cơ, biến chứng và cách phòng tránh.
Nhằm hưởng ứng ngày Đái tháo đường thế giới năm nay, Tòa soạn giới thiệu bài viết của TS.BS Trần Bá Thoại, một chuyên gia Nội tiết & Chuyển hóa, lưu ý một số vấn đề liên quan căn bệnh “thế kỷ” này:
1. Đái tháo đường là căn bệnh thế kỷ
Năm 1995, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) thống kê thấy có 135 triệu người ĐTĐ trên toàn thế giới (chiếm 4% dân số thế giới, nên dự báo năm 2010 sẽ là 221 triệu người và năm 2025 là 330 triệu người mắc căn bệnh này (chiếm 5,4%). Nhưng năm 2011, WHO thống kê lại thì đã có 366 triệu người ĐTĐ và dự kiến đến năm 2030 sẽ có 552 triệu người.
Vì vậy, WHO nhận định rằng: “Thế kỷ XXI này là thế kỷ của các bệnh nội tiết và rối loạn chuyển hóa mà điển hình là bệnh ĐTĐ. Những gì mà đại dịch HIV/AIDS đã hoành hành 20 năm cuối thế kỷ XX, thì đó sẽ là điều ĐTĐ làm trong 20 năm đầu của thế kỷ XXI”.
2. Đái tháo đường đang gia tăng nhanh và trẻ hóa
Tại Việt Nam, theo điều tra năm 2001, tỷ lệ người mắc bệnh ĐTĐ tại khu vực nội thành của 4 thành phố lớn là 4%, đến năm 2008 tỷ lệ chung toàn quốc là 5,7% và đến nay đã hơn 6%.
Tuy tỷ lệ ĐTĐ của Việt Nam không cao nhất thế giới, nhưng Việt Nam lại có 3 yếu tố nguy cơ:(1) Tốc độ phát triển nhanh nhất thế giới, (2) Người bệnh đang “trẻ hóa” nhiều và (3) Nhận thức của cộng đồng về đái tháo đường còn rất thấp.
3. Đái tháo đường có khá nhiều biến chứng
Nếu không được điều trị đúng cách, đái tháo đường có nhiều biến chứng mạn tính như: bệnh lý tim mạch, biến chứng mắt, bệnh lý thần kinh, tổn thương bàn chân đái tháo đường, bệnh thận …
4. Chi phí điều trị tốn kém, gánh nặng tài chánh
Chi phí để điều trị ĐTĐ khá phức tạp, tốn kém, thường gấp 2-4 lần người bình thường. Chi phí bao gồm cả thuốc men, trang thiết bị, xét nghiệm cận lâm sàng, chi phí những lần đi khám, kiểm tra v.v…Hơn nữa, người bệnh nặng, có biến chứng còn bị mất khả năng lao động, giảm thu nhập cho gia đình.
5. Có thể phòng tránh dễ dàng
Tuy nhiên, ĐTĐ có thể phòng tránh được bằng cách làm giảm nguy cơ mắc bệnh thông qua việc thay đổi lối sống.
Cách sống chuẩn mực để phòng bệnh ĐTĐ gồm hai phần: (1) chế độ ăn uống: kiêng ngọt, giảm mỡ, giàu đạm, thêm chất xơ, phân bố thường là 65% đường bột, 20% chất béo, 15 % chất đạm và (2) chế độ vận động tăng cường thể dục nhẹ, đi bộ, dưỡng sinh…
6. Tầm soát đơn giản
Trước đây, định lượng đường máu đói (Go) và Nghiệm pháp dung nạp glucose là hai xét nghiệm kinh điển, cơ bản để xác định ĐTĐ. Gần mười năm trở lại đây, đường máu bất kỳ (Gbk) và HbA1C được đưa vào tiêu chuẩn chẩn đoán, sàng lọc trên toàn thế giới.
Lợi thế của hai xét nghiệm này là tính khả thi: có thể lấy mẫu máu xét nghiệm bất kỳ, đặc biệt vẫn cho kết quả tin cậy khi bệnh nhân đã lỡ ăn no.
7. Có nhiều thuốc điều trị hiệu quả
Hiện nay, thuốc điều trị ĐTĐ có rất nhiều loại, nhưng tựu trung nằm trong 5 nhóm: insulin, kích thích tiết insulin, chống kháng insulin, giảm hấp thu glucose và giảm phân hủy insulin. Tuy nhiên, trong cả bốn thể bệnh ĐTĐ, cuối cùng đều phải dùng đến insulin.
(Nguồn: dantri.com.vn)