Bệnh thận - tiết niệu do đái tháo đường
Nhiễm khuẩn tiết niệu
Đối với phần kẽ thận tiết niệu, chúng ta có thể thấy biến chứng cơ bản nhất là nhiễm khuẩn tiết niệu. Ở những người bị ĐTĐ thì nguy cơ bị nhiễm khuẩn cao hơn rất nhiều. Nguyên nhân chính là các loại vi khuẩn Gram âm chiếm tới 90%. Vi khuẩn thường đi ngược từ niệu đạo vào bàng quang rồi ngược lên bể thận. Nhiễm khuẩn tiết niệu ở những người bị ĐTĐ hay gặp các loại vi khuẩn Escera Coli, liên cầu, tụ cầu, ngoài ra còn dễ bị các nhiễm khuẩn khác mà ở người bình thường ít gặp như nhiễm nấm, nhiễm Chlamydia.
Biểu hiện chính của nhiễm khuẩn tiết niệu là đái buốt, đái dắt, đái đục, nặng hơn là đái mủ, đái máu. Người bệnh thường có cảm giác đau buốt lúc đi tiểu, đau thường nóng rát và tăng lên cuối bãi. Khi bệnh nhân thấy sốt, đau vùng hông lưng, hay đái ra mủ, đái ra máu, cần phải nghĩ nhiễm khuẩn đã ngược lên đến thận và phải tới ngay bệnh viện.
Về mặt điều trị nhiễm khuẩn tiết niệu, phải tuân thủ nguyên tắc giải phóng thông thoáng đường tiểu, uống nhiều nước, kháng sinh hợp lý theo nguyên nhân gây bệnh. Vì nhiễm khuẩn đường tiết niệu hay tái phát nên cần tuyệt đối không được lạm dụng và sử dụng bừa bãi kháng sinh, phải tuân thủ chế độ điều trị một cách hợp lý để tránh nguy cơ tái phát bệnh.
![]() Cấu trúc hệ tiết niệu. |
Viêm mạch thận ĐTĐ
Tổn thương mạch thận là một trong những biến chứng về mạch máu hay gặp ở người bị ĐTĐ. Triệu chứng của việc thiếu máu thận là tăng huyết áp. Bệnh lý về mạch thận do ĐTĐ cũng giống như các bệnh lý về mạch máu khác, mạch máu đến thận cũng có thể bị các biến cố của các bệnh như mạch vành hay mạch não, bao gồm xơ vữa mạch, huyết khối, huyết tắc mạch máu... Với người bị ĐTĐ, biến chứng xơ vữa mạch cao lên gấp nhiều lần, lòng mạch bị hẹp lại và gây thiếu máu đến tổ chức.
Nguy cơ tổn thương mạch thận càng cao và sớm khi người bệnh ĐTĐ có thêm rối loạn chuyển hóa lipid, hút thuốc lá, tăng huyết áp.
Bệnh cầu thận ĐTĐ
Giai đoạn đầu, đường huyết tăng cao, tổn thương thận chính là giãn khoảng kẽ, phì đại gian mạch. Lâm sàng sẽ thấy quả thận to lên về kích thước, mức lọc cầu thận tăng lên. Khi theo dõi bệnh nhân bị ĐTĐ, người ta thấy kích thước thận tăng cả về chiều rộng, chiều dài và chiều cao tới 140% so với quả thận bình thường. Trong khi mức lọc cầu thận tăng tới 150%. Nếu không được điều trị tốt sẽ tiến triển tới giai đoạn microalbumin niệu. Lúc này thận bắt đầu suy giảm chức năng. Nếu xét nghiệm mô học sẽ thấy màng đáy cầu thận dày lên, có nhiều chỗ bị "vỡ". Nếu không được điều trị kịp thời sẽ dẫn đến xơ hóa mạch cầu thận và cuối cùng sẽ khiến thận mất chức năng hoàn toàn.
Suy thận giai đoạn cuối
Hầu hết các bệnh nhân ĐTĐ có biến chứng giai đoạn cuối đều là ĐTĐ týp II, chiếm trên 90% trong khi chỉ có dưới 10% ĐTĐ týp I. Suy thận giai đoạn cuối là kết quả của một quá trình bệnh lý kéo dài xuất phát từ những tổn thương rất sớm của thận, sau đó đến giai đoạn muộn hơn, bệnh nhân có xuất hiện các dấu hiệu lâm sàng, xuất hiện đạm niệu, chức năng thận mất đi, ure tăng lên, các thành phần nitơ phi protein và cuối cùng thận mất chức năng hoàn toàn. Khi đó bệnh nhân phải chuyển sang giai đoạn điều trị thay thế. Về điều trị suy thận giai đoạn cuối do ĐTĐ, người ta thấy rằng, có 12% những người bị ĐTĐ suy thận giai đoạn cuối được điều trị bằng thẩm phân phúc mạc (lọc màng bụng). Trên 80% được điều trị bằng thận nhân tạo, chỉ khoảng 8% được ghép thận. Điều trị thay thế thận ở người bệnh ĐTĐ có một số đặc điểm khác với những bệnh lý khác. Đó là thời gian lọc máu phải sớm hơn. Ngay khi mức lọc cầu thận ở mức 15 - 20ml/phút thì bắt buộc phải can thiệp để ngăn các biến chứng khác. Tỷ lệ biến chứng cao hơn và thời gian sống sót của bệnh nhân ngắn hơn so với nhóm bệnh khác.
Lời khuyên của thầy thuốc
Để điều trị hiệu quả biến chứng thận do ĐTĐ phải tuân thủ theo nguyên tắc chặt chẽ, phối hợp nhiều phương pháp và có sự theo dõi sát sao. Cụ thể:
Khống chế đường huyết: Nghiên cứu đa quốc gia cho thấy có sự tương quan chặt chẽ giữa nồng độ HbA1c với sự xuất hiện và khối lượng của protein niệu cũng như chức năng thận. Khống chế tốt đường huyết càng sớm càng tốt sẽ làm giảm đáng kể tần suất bệnh thận và suy thận.
Khống chế huyết áp: Con số huyết áp cần đạt được ở bệnh nhân bệnh thận ĐTĐ bao giờ cũng phải thấp hơn người tăng huyết áp khác. Theo khuyến cáo chung là 120/70mmHg. Các thuốc hay dùng là ức chế men chuyển đổi angiotensin (renitec, lisinopril) hay ức chế thụ thể angiotensin II (aprovel, telmisartan).
Hạn chế tối đa sự tăng cân: Béo phì làm nhanh chóng suy thận hơn hẳn so với người không béo phì.
Bỏ thuốc lá không chỉ ngăn suy thận mà còn giảm các biến cố tim mạch khác.
Ăn giảm đạm cũng làm giảm tiến triển bệnh thận.
Nâng cao năng lực kiểm soát bệnh không lây nhiễm cho cán bộ y tế tại Quảng Ninh
Trong 02 ngày từ 5 – 6/12/2024, tại TP.Hạ Long, Trung tâm Kiểm soát bệnh tật (CDC) Quảng Ninh phối hợp với Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương và Trường Đại học Y Dược Hải Phòng tổ chức lớp tập huấn, hướng dẫn dự phòng, phát hiện sớm, chẩn đoán điều trị và quản lý bệnh tăng huyết áp, đái tháo đường cho 50 học viên là cán bộ chuyên trách, cán bộ lâm sàng về quản lý, điều trị bệnh không lây nhiễm tại các đơn vị y tế trên địa bàn tỉnh.
Giải pháp chiến lược trong điều trị bệnh không lây nhiễm
Nâng cao năng lực cho hệ thống y tế cơ sở trong phát hiện, chẩn đoán và điều trị các bệnh không lây nhiễm tại cộng đồng là giải pháp chiến lược đang được ngành y tế tỉnh Quảng Ninh hướng đến.
Hưởng ứng Ngày Đái tháo đường thế giới 14/11 – Nâng cao nhận thức toàn cầu về bệnh đái tháo đường
Ngày Đái tháo đường thế giới 14/11 được thiết lập bởi Hiệp hội Đái tháo đường thế giới (IDF) và Tổ chức Y tế thế giới (WHO) vào năm 1991 và đã trở thành một ngày chính thức của Liên hợp quốc vào năm 2006. Đây là dịp để nhắc nhở và nâng cao nhận thức của cộng đồng toàn cầu về sự nguy hiểm của căn bệnh này, tạo ra một môi trường hỗ trợ toàn diện cho người bệnh – không chỉ về mặt y tế mà còn về tinh thần và xã hội.
Người trẻ tuổi ngày càng dễ mắc đái tháo đường type 2
Đái tháo đường là bệnh lý rối loạn chuyển hóa với đặc điểm tăng đường huyết mạn tính, do cơ thể không sản xuất đủ insulin, sử dụng insulin không hiệu quả, hoặc cả hai. Hậu quả lâu dài của bệnh có thể gây tổn thương nghiêm trọng đến tim, mạch máu, thận, mắt và hệ thần kinh.
Ba thói quen tăng nguy cơ mắc bệnh tiểu đường
Các nhà khoa học xác định ba yếu tố ăn uống tăng nguy cơ mắc tiểu đường tuýp 2 gồm: ăn ít ngũ cốc, ăn nhiều gạo và thịt chế biến sẵn.
Những thói quen ăn sáng tốt nhất để giảm lượng đường trong máu
Cách bạn bắt đầu ngày mới có thể ảnh hưởng lâu dài đến lượng đường trong máu của bạn.
Đi bộ sau bữa ăn giúp ích gì cho người bệnh tiểu đường?
Theo một số nghiên cứu gần đây, việc đi bộ sau khi ăn sẽ mang lại lợi ích cho sức khỏe, đặc biệt là người bệnh tiểu đường.
Tìm ra thủ phạm số 1 gây bệnh tiểu đường
Theo Trung tâm Dự phòng và Kiểm soát bệnh tật Mỹ (CDC), 37,3 triệu người ở Mỹ mắc bệnh tiểu đường (11,3% dân số) và 96 triệu người bị tiền tiểu đường (38,0% dân số trưởng thành).
Mức đường huyết bình thường ở người bệnh tiểu đường
Những người mắc bệnh đái tháo đường nên kiểm soát lượng đường trong máu 80-130 mg/dL khi đói và dưới 180 mg/dL khoảng 1-2 giờ sau ăn.
Đặt lịch hẹn tư vấn!
Chuyên gia của chúng tôi sẽ liên hệ trực tiếp với bạn.
- Sở Y tế Quảng Ninh chỉ đạo các đơn vị y tế chủ động phòng chống rét đậm, rét hại kéo dài
- CHÀO MỪNG KỶ NIỆM 95 NĂM NGÀY THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM (3/2/1930-3/2/2025)
- Thông tư quy định định mức kinh tế - kỹ thuật dịch vụ y tế dự phòng về lĩnh vực phòng, chống bệnh do ký sinh trùng, côn trùng tại cơ sở y tế công lập
- Hướng dẫn lựa chọn, bảo quản và tiêu dùng thực phẩm trong dịp tết nguyên đán Ất tỵ 2025
- Ngộ độc rượu và cách phòng tránh ngộ độc rượu
- Kế hoạch tăng cường công tác y tế đảm bảo đón Tết Nguyên Đán Ất Tỵ 2025