Cẩn trọng khi sử dụng thuốc sinh học
Khái niệm thuốc sinh học và tương tự sinh học là vấn đề đang được đề cập nhiều trong những năm gần đây trong y học. Ngày càng có nhiều thuốc sinh học được phát minh và được cấp chứng nhận lưu hành. Song với thực tiễn của việc sử dụng các chế phẩm này vào quá trình chẩn đoán và điều trị bệnh tại Việt Nam hiện nay, chúng ta cần phải được nhận thức một cách thấu đáo để nâng cao chất lượng chữa bệnh, hạn chế những tác hại do nhận thức chưa đúng.
Cần hết sức thận trọng khi sử dụng thuốc sinh học trong điều trị (Ảnh: Internet) |
Có thể nói, các chế phẩm sinh học đang được sử dụng với nhiều mục đích khác nhau trong y học, từ việc chẩn đoán đến chữa bệnh. Những chế phẩm sinh học được dùng để chữa bệnh được gọi là thuốc sinh học. Hiện nay, nhiều thuốc sinh học đã được dùng phổ biến trong điều trị như: insulin, hormone tăng trưởng người, erythropoietin, yếu tố kích thích dòng hạt (G-CSF), interferon-alpha (INF-alpha) và kháng thể đơn dòng như rituximab và trastuzumab.
Thuốc sinh học có bản chất là protein và do chính những sinh vật sống tạo ra. Điều này dẫn đến thuốc sinh học có kích thước phân tử rất lớn và qui trình sản xuất rất phức tạp, phải thực hiện nhiều quy trình thử nghiệm, đánh giá chất lượng hết sức nghiêm ngặt, đặc biệt là khâu kiểm tra trình tự DNA của chuỗi gen mã hóa ra protein mong muốn trước khi đem áp dụng trong sản xuất qui mô thương mại.
Tuy nhiên, có một thực tế là khi thời gian thực hiện bảo hộ bản quyền hết hiệu lực, các thuốc sinh học chính hãng (do chính các công ty nghiên cứu phát triển đầu tiên) sẽ được các hãng bào chế khác cố gắng nghiên cứu sản xuất, đưa ra lưu thông trên thị trường, tạo thành một nhóm các thuốc gọi là các thuốc tương tự sinh học, thường được giới thiệu, quảng cáo là có cấu trúc và hoạt tính tương tự với những thuốc sinh học.
Nhưng vấn đề không thực sự đơn giản như vậy.
Hoạt tính trên lâm sàng của những chế phẩm sinh học này không thể được mặc nhiên “cho rằng” tương tự với “thuốc gốc” bởi vì những đặc tính này do qui trình sản xuất quyết định, đây là “bí quyết riêng” của nhà sản xuất như là “phát minh” của riêng họ.
Nói cách khác, khi không tiếp cận được với cơ sở dữ liệu mô tả chi tiết qui trình sản xuất thì việc sản xuất ra các thuốc sinh học giống nhau giữa các hãng bào chế là không thể thực hiện được, thậm chí một chút khác biệt trong qui trình sản xuất sẽ tạo ra khác biệt lớn trong sản phẩm cuối cùng.
Vì vậy, các “phiên bảo sao chép” không tương tự với “thuốc gốc” về mặt cấu tạo, hiệu quả và độ an toàn mà cần phải có nghiên cứu lâm sàng chứng minh trên từng thuốc cụ thể của từng nhà sản xuất, ngay cả khi đã được cấp phép lưu hành.
Cơ quan Quản lý Dược phẩm châu Âu, Hoa Kỳ và Tổ chức Y tế thế giới đã soạn thảo những qui trình rất rõ ràng về việc đồng ý cho phép lưu hành thuốc tương tự sinh học theo từng phân nhóm (polypeptide, nội tiết tố hay kháng thể) trên cơ sở phải có đủ các dữ liệu về cận lâm sàng và lâm sàng, bao gồm các thông tin liên quan đến dược động học, dược lực học, độc tính, tính sinh miễn dịch, hiệu quả điều trị và độ an toàn của sản phẩm đó.
Do vậy, khi không đủ mức độ tin cậy về qui trình sản xuất và các nghiên cứu lâm sàng chuẩn mực thì các thuốc tương tự sinh học này gây nhiều bận tâm cho thầy thuốc, nhất là trong ứng dụng điều trị các bệnh lý phức tạp, nguy hiểm.
Tóm lại, những nhà hoạch định chính sách chăm sóc sức khỏe và các bác sĩ lâm sàng nên hiểu thấu đáo rằng các thuốc tương tự sinh học không phải là “bản sao hoàn chỉnh” của các thuốc chính hãng bởi quy trình sản xuất thuốc sinh học là vô cùng phức tạp và là duy nhất cho từng chế phẩm. Một sai biệt nhỏ trong quy trình sản xuất gây ra khác biệt lớn cho phân tử thuốc sinh học. Hiệu quả và an toàn của thuốc tương tự sinh học phải được chứng minh qua các nghiên cứu lâm sàng có qui mô lớn và có độ tin cậy tuyệt đối.
Vì vậy, cần hết sức thận trọng xem xét trước khi quyết định dùng một thuốc tương tự sinh học với ý muốn thay thế thuốc sinh học bởi hiệu quả và an toàn cho bệnh nhân luôn là vấn đề ưu tiên hàng đầu. Cùng với đó là sự cân nhắc, chặt chẽ hơn của các nhà quản lý trong thực hiện quy trình cấp phép lưu hành đối với các chế phẩm sinh học để đảm bảo tối ưu hiệu quả và an toàn cho người bệnh, cả về trước mắt lẫn lâu dài.
Thông tư quy định định mức kinh tế - kỹ thuật dịch vụ y tế dự phòng về lĩnh vực phòng, chống bệnh do ký sinh trùng, côn trùng tại cơ sở y tế công lập
Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành Thông tư số 05/2025/TT-BYT ngày 17 tháng 01 năm 2025 quy định định mức kinh tế - kỹ thuật dịch vụ y tế dự phòng về lĩnh vực phòng, chống bệnh do ký sinh trùng, côn trùng tại cơ sở y tế công lập. Thông tư này quy định định mức kinh tế - kỹ thuật dịch vụ y tế dự phòng về lĩnh vực phòng, chống bệnh do ký sinh trùng, côn trùng tại cơ sở y tế công lập.
Kế hoạch tăng cường công tác y tế đảm bảo đón Tết Nguyên Đán Ất Tỵ 2025
Sở Y tế tỉnh Quảng Ninh xây dựng Kế hoạch triển khai công tác y tế phục vụ Tết Nguyên đán Ất Tỵ 2025 diễn ra từ ngày 25/01/2025 đến hết ngày 02/02/2025, cụ thể như sau:
DỰ PHÒNG LÂY NHIỄM HIV, VIÊM GAN B, GIANG MAI TỪ MẸ SANG CON.
Hằng năm, trên thế giới tỉ lệ trẻ sinh ra bị nhiễm hoặc có nguy cơ lây nhiễm HIV, viêm gan B, giang mai từ mẹ khá cao. Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới, khu vực Tây Thái Bình Dương mỗi năm có khoảng 180.000 trẻ bị nhiễm viêm gan vi rút B, 13.000 trẻ bị nhiễm giang mai và 1.400 trẻ bị nhiễm HIV.
Phòng ngừa những bệnh thường gặp trong mùa đông xuân
Thời tiết đông xuân lạnh ẩm không chỉ tạo điều kiện cho các loại virus, vi khuẩn phát triển mà còn làm tăng nguy cơ bùng phát dịch bệnh, đặc biệt là các bệnh lây truyền qua đường hô hấp và tiêu hóa; thời điểm này thường diễn ra nhiều lễ hội, mọi người gia tăng tiếp xúc gần nên có nguy cơ bùng phát dịch bệnh càng cao. Mọi người cần trang bị một số kiến thức cơ bản về dịch bệnh mùa đông xuân như:
Hội nghị Tổng kết công tác phòng chống HIV/AIDS năm 2024, định hướng hoạt động năm 2025
Chiều ngày 30/12/2024, Sở Y tế Quảng Ninh tổ chức Hội nghị Tổng kết công tác phòng, chống HIV/AIDS tỉnh năm 2024 và triển khai nhiệm vụ 2025.
Bệnh sởi nguy hiểm như thế nào?
Bệnh sởi là một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở trẻ dưới 5 tuổi, có khả năng bùng phát thành dịch lớn do khả năng lây lan mạnh qua đường hô hấp.
Bộ Y tế khuyến cáo về bệnh sởi: Tiêm vắc xin là biện pháp hữu hiệu để phòng bệnh
Bệnh sởi chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, dễ lây lan qua đường hô hấp qua các giọt bắn của người mắc bệnh hoặc có thể qua tiếp xúc trực tiếp, qua bàn tay bị nhiễm dịch tiết của người bệnh.
Phường Hà Phong: Truyền thông, phổ biến kiến thức về chăm sóc sức khỏe người cao tuổi
Ngày 05/10/2024, Trạm Y tế phường Hà Phong, thành phố Hạ Long phối hợp với các tổ chức hội, đoàn thể tổ chức truyền thông, hướng dẫn chăm sóc sức khoẻ, kỹ năng phòng bệnh ở người cao tuổi tại các khu phố trên địa bàn.
Điều trị dự phòng sau phơi nhiễm HIV
Điều trị dự phòng sau phơi nhiễm với HIV (viết tắt là PEP) là dùng thuốc kháng HIV (thuốc ARV) cho những người bị phơi nhiễm với HIV. Việc điều trị sau phơi nhiễm cần được thực hiện càng sớm cáng tốt tốt nhất trong vòng 24 giờ và không muộn hơn 72 giờ sau phơi nhiễm. Phơi nhiễm có thể xảy ra trong môi trường nghề nghiệp và ngoài môi trường nghề nghiệp.
Đặt lịch hẹn tư vấn!
Chuyên gia của chúng tôi sẽ liên hệ trực tiếp với bạn.
- Thông tư quy định định mức kinh tế - kỹ thuật dịch vụ y tế dự phòng về lĩnh vực phòng, chống bệnh do ký sinh trùng, côn trùng tại cơ sở y tế công lập
- Hướng dẫn lựa chọn, bảo quản và tiêu dùng thực phẩm trong dịp tết nguyên đán Ất tỵ 2025
- Ngộ độc rượu và cách phòng tránh ngộ độc rượu
- Kế hoạch tăng cường công tác y tế đảm bảo đón Tết Nguyên Đán Ất Tỵ 2025
- DỰ PHÒNG LÂY NHIỄM HIV, VIÊM GAN B, GIANG MAI TỪ MẸ SANG CON.
- 8 cách phòng bệnh hô hấp khi trời lạnh