Con đường gian nan tìm ra thuốc chữa tiểu đường
Chặng đường gian khó
Từ xa xưa, con người đã đề cập đến một thể bệnh với dấu hiệu đặc trưng là mệt mỏi, khát nước và tiểu nhiều. Năm 1776, BS. Matthew Dobson phát hiện đường có trong nước tiểu của bệnh nhân. Từ đó đã hình thành phương pháp đầu tiên điều trị bệnh ĐTĐ, đó là: hạn chế đường trong chế độ ăn. Tuy nhiên, phương pháp này không mấy thành công. Hơn 100 năm sau, các nhà khoa học khẳng định bệnh ĐTĐ là do tổn thương tụy và thử nghiệm khi cắt bỏ tụy của chó, thấy bệnh tiểu đường xuất hiện, bệnh cảnh lâm sàng rất nặng nề, con vật chết chỉ sau vài tuần. Tiếp theo, năm 1900, BS. Eugen L. Opie nghiên cứu mô tụy của một bé gái chết do bệnh ĐTĐ, ghi nhận rằng các tiểu đảo tụy thoái hóa nặng nề đến nỗi không thể nhận dạng được. Và sau đó, BS. Georg Ludwig Zuelzer người Đức đã trở thành người đi tiên phong, táo bạo nhất trong quá trình tìm kiếm chất chiết xuất tụy (còn gọi là insulin). Ông bào chế được chất chiết xuất từ tụy và ngày 21/6/1906, ông đã tiêm cho một bệnh nhân ĐTĐ đang hôn mê. Bệnh nhân qua được cơn nguy kịch. Tuy nhiên, khi đó, Zuelzer không có đủ lượng thuốc quý giá này nên 4 ngày sau, bệnh nhân lại rơi vào tình trạng mất ý thức và qua đời. Vấp phải những hoài nghi của đồng nghiệp, những khó khăn khi đưa vào sản xuất, rồi cuộc chiến tranh thế giới nổ ra, BS. Zuelzer nhập ngũ và từ bỏ hoàn toàn công việc nghiên cứu.
Frederick Grant Banting và John James Rickard Macleod phát hiện ra insulin điều trị bệnh tiểu đường.
Và mốc son của nền y học
Trong suốt 20 năm đầu của thế kỷ 20, rất nhiều các công trình nghiên cứu được thực hiện nhằm tìm ra phương thuốc điều trị bệnh ĐTĐ nhưng hầu hết đều thất bại. Năm 1921, một phẫu thuật viên người Canada với ý tưởng thực tế đã chiết xuất thành công chất insulin, đánh giá một mốc son trong lịch sử y học. Tên ông là Frederick Grant Banting, người Canada. Ông cho biết, trong khi chuẩn bị một bài giảng liên quan đến tụy và bệnh ĐTĐ, tình cờ ông đọc được báo cáo của GS. Moses Baron về trường hợp sỏi ống tụy hiếm gặp, khi ống tụy bị tắc gây nên tình trạng thoái hóa mô tụy nhưng tiểu đảo tụy gần như bình thường. Đột nhiên, ông có ý nghĩ đây là phương pháp bào chế chiết xuất từ tiểu đảo tụy. Sau đó, ông đến Toronto để trình bày ý tưởng này với những người bạn và với BS. John James Rickard Macleod - giáo sư sinh lý học Trường đại học Toronto. Mặc dù còn hoài nghi, nhưng Macleod vẫn đồng ý cho ông sử dụng một cơ sở thí nghiệm cùng 10 con chó và 1 trợ lý trong 2 tháng kèm theo các phương tiện để đo đường máu, đường niệu. Thật may mắn, trợ lý cho Banting là Charles Hebert Best - một sinh viên y khoa 22 tuổi, không chỉ có khả năng định lượng đường máu, đường niệu (rất cần cho quy trình thực nghiệm) mà còn là một cộng tác viên đầy nhiệt tình và cương quyết. Đến năm 1921, hai tác giả này đã mổ chó, thắt ống tụy nhưng cuối cùng tụy không thoái hóa như mong đợi. Họ tiếp tục thử nghiệm lần thứ hai và lần này thành công. Mổ lấy tụy và nghiền mô tụy với dung dịch nước muối, lấy dịch trộn này tiêm vào con chó mắc bệnh tiểu đường đang trong tình trạng nguy kịch, đường huyết rất cao. Trong vòng 2 giờ, tình trạng cải thiện rất nhiều. Đường huyết hạ xuống một nửa so với trước. Điều kỳ diệu đã xảy ra! Họ đã bào chế được chất chiết xuất từ tiểu đảo tụy, có tác dụng hạ đường huyết và khiến cho bệnh tiểu đường thuyên giảm ít nhất trong chốc lát. Năm 1922, cùng với sự cộng tác của các đồng nghiệp, Banting và Best đã thu được một lượng lớn insulin thuần khiết để điều trị. Tháng 1/1922, hai ông đã tiêm insulin cho Leonard Thompson, 14 tuổi, mắc bệnh tiểu đường đang hôn mê. Bệnh nhân hồi phục nhanh chóng, kéo dài cuộc sống thêm 13 năm nữa. Với tinh thần nhân đạo, Banting và Best không nhận bất kỳ một nguồn lợi nào từ phát minh vĩ đại này. Họ đã ủy nhiệm quyền phát minh này cho một ủy ban thuộc Trường đại học Toronto. Banting được toàn thế giới tôn vinh. Năm 1923, giải Nobel Y học được trao cho ông và Macleod vì công lao phát hiện insulin. Phương pháp điều trị bằng insulin từ đó đã trở thành một phương pháp hiệu quả, hiện đang được áp dụng rộng rãi trên toàn thế giới và là cứu cánh duy nhất cho những bệnh nhân không may mắc phải căn bệnh ĐTĐ.
Giới thiệu Khoa Sức khoẻ Sinh sản
Số điện thoại: 02033.829.572 Địa chỉ liên hệ : Khoa Sức khỏe sinh sản – tầng 3 tòa nhà CDC Quảng Ninh.
Tập huấn về triển khai hoạt động phòng, chống HIV/AIDS năm 2025
Nhằm hướng dẫn thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch về hoạt động phòng, chống HIV/AIDS năm 2025 trên địa bàn tỉnh, ngày 07/03/2025, Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh Quảng Ninh tổ chức lớp tập huấn về triển khai hoạt động phòng chống HIV/AIDS cho đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác phòng, chống HIV/AIDS tại trung tâm y tế và trạm y tế. Đồng chí Vũ Quyết Thắng, Giám đốc Trung tâm dự và khai mạc lớp tập huấn.
Tập huấn nâng cao năng lực hoạt động cải thiện tình trạng dinh dưỡng năm 2025 tại thành phố Hạ Long
Nhằm nâng cao năng lực chuyên môn cho đội ngũ y tế trong công tác cải thiện tình trạng dinh dưỡng, từ ngày 5 đến ngày 6/3, tại thành phố Hạ Long, Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh Quảng Ninh tổ chức lớp tập huấn về "Nâng cao năng lực hoạt động cải thiện tình trạng dinh dưỡng năm 2025".
Khám phụ khoa, sàng lọc ung thư cổ tử cung và đặt dụng cụ tử cung miễn phí tại CDC Quảng Ninh
Thiết thực kỷ niệm ngày Quốc tế phụ nữ (8/3), từ ngày 3 – 7/3/2025, Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh (CDC) Quảng Ninh sẽ tổ chức khám phụ khoa, sàng lọc ung thư cổ tử cung và đặt dụng cụ tử cung miễn phí cho chị em phụ nữ trong độ tuổi sinh sản trên địa bàn thành phố Hạ Long.
Ngộ độc rượu và cách phòng tránh ngộ độc rượu
Thời điểm trước, trong và sau Tết Nguyên đán, người dân thường tổ chức các buổi hội họp ăn uống, liên hoan, tất niên, gặp mặt đầu xuân, tham gia các lễ hội, do vậy nhu cầu sử dụng rượu bia trong những ngày này gia tăng, số trường hợp phải nhập viện do say rượu, ngộ độc rượu vì thế cũng cao hơn so với các dịp khác trong năm.
Đại hội chi bộ Phòng khám – Da liễu – Sức khoẻ sinh sản (ĐBBP Trung tâm Kiểm soát bệnh tật) nhiệm kỳ 2025-2027 thành công tốt đẹp!
Ngày 8/1/2025, Chi bộ Phòng khám – Da liễu – Sức khoẻ sinh sản (PK-DL-SKSS), trực thuộc Đảng bộ bộ phận Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh Quảng Ninh tổ chức Đại hội nhiệm kỳ 2025-2027.
Tập huấn, giao ban chuyên môn công tác chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em lần 2 năm 2024
Sáng ngày 12/12, tại TP. Hạ Long, Trung tâm Kiểm soát bệnh tật (CDC) tỉnh Quảng Ninh tổ chức Tập huấn, giao ban về công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em (CSSKBMTE) cho hơn 50 học viên là cán bộ phụ trách Khoa Sản, thống kê báo cáo tại các bệnh viện, TTYT trên địa bàn tỉnh. Đồng chí Vũ Quyết Thắng, Giám đốc Trung tâm dự và khai mạc lớp tập huấn.
Hội thảo tổng kết hoạt động dự án quỹ toàn cầu năm 2024, phương hướng triển khai năm 2025
Ngày 10/12, tại thành phố Hạ Long, Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh Quảng Ninh tổ chức chương trình Hội thảo tổng kết hoạt động dự án quỹ toàn cầu năm 2024, phương hướng triển khai năm 2025. Tiến sĩ Vũ Quyết Thắng, Giám đốc Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh Quảng Ninh dự và phát biểu chỉ đạo tại Hội thảo.
Nâng cao năng lực kiểm soát bệnh không lây nhiễm cho cán bộ y tế tại Quảng Ninh
Trong 02 ngày từ 5 – 6/12/2024, tại TP.Hạ Long, Trung tâm Kiểm soát bệnh tật (CDC) Quảng Ninh phối hợp với Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương và Trường Đại học Y Dược Hải Phòng tổ chức lớp tập huấn, hướng dẫn dự phòng, phát hiện sớm, chẩn đoán điều trị và quản lý bệnh tăng huyết áp, đái tháo đường cho 50 học viên là cán bộ chuyên trách, cán bộ lâm sàng về quản lý, điều trị bệnh không lây nhiễm tại các đơn vị y tế trên địa bàn tỉnh.
Đặt lịch hẹn tư vấn!
Chuyên gia của chúng tôi sẽ liên hệ trực tiếp với bạn.
- CDC Quảng Ninh hợp tác với VNPT xây dựng hệ thống quản lý tập trung, hướng tới chuyển đổi số toàn diện
- CDC Quảng Ninh: Khám, tư vấn sức khỏe miễn phí cho thương, bệnh binh và người có công tại phường Hồng Hải
- Đoàn sinh viên Trường Đại học Thủy lợi tham quan, thực tập môn học tại CDC Quảng Ninh
- CDC Quảng Ninh tổ chức lớp tập huấn tư vấn xét nghiệm HIV năm 2025
- Giám sát tiêm chủng vắc xin phòng Sởi cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt – Không để trẻ nào bị bỏ lại phía sau
- Hội YHDP Quảng Ninh tổ chức tập huấn phương pháp nghiên cứu khoa học năm 2025