Ngăn chặn nguy cơ đột quỵ não
Việt Nam mỗi năm có thêm 200.000 người mắc, 104.000 người tử vong vì đột quỵ. Để phòng ngừa bệnh lý nguy hiểm này, cần hiểu rõ về các yếu tố nguy cơ dẫn đến đột quỵ.
Có 2 nhóm yếu tố nguy cơ gây đột quỵ đó là các yếu tố nguy cơ không thể thay đổi và các yếu tố nguy cơ có thể thay đổi. Nói rằng có thể phòng ngừa đột quỵ bởi may mắn là phần lớn các yếu tố nguy cơ là có thể tác động vào để thay đổi.
Các yếu tố nguy cơ không thể thay đổi
Đó là tuổi tác (đa số đột quỵ gặp ở những người từ 45 tuổi). Tiếp theo là giới tính (bệnh lý này nam gặp nhiều hơn nữ), chủng tộc, di truyền...
Các yếu tố nguy cơ thay đổi được
Tăng huyết áp: Nếu huyết áp tối đa (tâm thu) > = 140mmHg và hoặc huyết áp tối thiểu (tâm trương) > = 90mmHg. Tăng huyết áp là yếu tố nguy cơ đột quỵ não hàng đầu, chiếm hơn 70% tổng số bệnh nhân đột quỵ. Huyết áp tăng cao gây tổn thương thành mạch máu, tạo các điểm yếu ở thành mạch. Các điểm yếu bị tổn thương tiến triển nặng dần theo thời gian và đến một lúc nào đó vỡ ra gây đột quỵ xuất huyết não.
Tăng huyết áp là nguyên nhân gây xơ vữa động mạch. Các mảng vữa xơ gây chít hẹp lòng mạch, cản trở dòng máu lưu thông, gây đột quỵ nhồi máu não.
Có những nghiên cứu cho thấy, điều trị tốt huyết áp ở bệnh nhân bị đột quỵ do tăng huyết áp sẽ làm giảm tần suất tái phát đột quỵ và giảm di chứng do đột quỵ gây ra.
Kiểm soát huyết áp nhằm ngừa nguy cơ đột quỵ.
Đái tháo đường (ĐTĐ): ĐTĐ gây tổn thương toàn bộ hệ thống động mạch (kể cả động mạch não). ĐTĐ làm tăng tỷ lệ mắc đột quỵ từ 2 - 6,5 lần, tăng tỷ lệ tử vong lên 2 lần. Triệu chứng biểu hiện bệnh ĐTĐ ở giai đoạn sớm thường rất mờ nhạt hoặc hầu như không có gì. Một số ít bệnh nhân có biểu hiện ăn nhiều, uống nhiều, gầy sút cân nhanh. Vì vậy, mọi người trên 40 tuổi nên định kỳ xét nghiệm đường máu để có thể phát hiện bệnh sớm, nếu mắc bệnh.
Rối loạn lipid máu (RLLM): Khi hàm lượng lipid trong máu quá cao là điều kiện thuận lợi để lipid ngấm vào và lắng đọng ở thành mạch máu. Đây là giai đoạn đầu tiên của quá trình hình thành mảng vữa xơ động mạch. Trước đây người ta quan niệm RLLM là khi tổng lượng lipid máu tăng cao (cholesterol và/hoặc triglyceride). Nhưng hiện nay đã có nghiên cứu cho thấy sự rối loạn về thành phần phức bộ lipid máu cũng quan trọng không kém tổng lượng lipid máu tăng cao.
Lipid là thành phần rất quan trọng để các tế bào, mô trong cơ thể có thể tồn tại và phát triển. Lipid trong cơ thể gồm 2 nhóm: ngoại sinh do thức ăn cung cấp và nội sinh do cơ thể sinh ra. Ở trong máu, lipid không tan được nên phải liên kết với các protein để tạo thành lipoprotein. Có 3 loại lipoprotein: Lipoprotein tỷ trọng cao (HDL) còn gọi là cholesterol “tốt”.Lipoprotein tỷ trọng thấp (LDL) còn gọi là cholesterol “xấu”. Lipoprotein tỷ trọng rất thấp (VLDL).
Khi xét nghiệm thấy LDL-C tăng cao là có liên quan nhiều nhất đến nguy cơ vữa xơ động mạch và biến cố tim mạch. Nếu tăng triglyceride đơn độc cũng là yếu tố nguy cơ bệnh tim mạch.
Xơ vữa động mạch: Mảng vữa xơ trong lòng động mạch sẽ làm chít hẹp dần lòng mạch, có thể gây tắc mạch. Nhiều trường hợp mảng vữa xơ bong ra, trôi theo dòng máu, đến gây tắc ở vị trí mạch máu khác. Vì vậy cần điều trị ổn định mảng vữa.
Béo phì: Béo phì là yếu tố thuận lợi gây tăng huyết áp, rối loạn lipid và tăng glucose máu. Tất cả các yếu tố này kết hợp lại sẽ làm tăng nguy cơ bệnh lý tim mạch.
Hút thuốc lá: Gây tăng huyết áp, xơ vữa động mạch, rối loạn nhịp tim, đột quỵ.
Uống rượu nhiều: Gây tăng huyết áp, xơ vữa động mạch. Ngoài ra, uống rượu nhiều trong một thời gian dài có thể gây tổn thương gan, suy gan gây rối loạn đông máu. Vì vậy, người uống rượu nhiều có nguy cơ cao bị đột quỵ chảy máu não. Thêm vào đó, khi đột quỵ thường rất nặng nề.
Phình động mạch não: Là nguyên nhân tương đối phổ biến gây đột quỵ chảy máu não ở người trẻ tuổi. Phình động mạch não gặp ở 1-2 % dân số. Khoảng 10% bệnh nhân bị vỡ phình động mạch não tử vong trước khi đến bệnh viện.
Phình động mạch thường diễn biến âm thầm không triệu chứng. Trong vòng 2-3 ngày trước khi phình động mạch não vỡ, khoảng 1/2 số bệnh nhân có các triệu chứng sau: đau đầu đột ngột, rất dữ dội. Sau đó triệu chứng đau đầu giảm dần.
Dị dạng động - tĩnh mạch não: Là bệnh bẩm sinh, hình thành một đám rối mạch máu bất thường trong não, nối thông động mạch và tĩnh mạch não. Ở vị trí dị dạng, mạch máu dị dạng có hình dạng và cấu trúc bất thường, rất dễ bị vỡ ra gây chảy máu não. Đa số có diễn biến âm thầm. Ở một số ít bệnh nhân có biểu hiện co giật, động kinh, đau đầu kéo dài.
Dùng thuốc tránh thai (progesterone), nội tiết tố nam (testosterone): Khi dùng nội tiết tố nam để điều trị, chẳng hạn ở một số bệnh như thiểu năng sinh dục nguyên phát hay thứ phát, hay trong suy thận mạn có dấu hiệu thiếu máu nặng hoặc ở một số vận động viên (đua xe đạp, thể dục thể hình...), thì số lượng hồng cầu sẽ tăng rất nhiều, dẫn đến dễ vón cục, gây tắc mạch nhiều nơi (ở phổi gây nhồi máu phổi, ở tim gây nhồi máu cơ tim, ở não gây đột quỵ nhồi máu não...).
Bệnh tim: Bệnh van tim (hẹp van hai lá, hở van hai lá, hở van động mạch chủ), rối loạn nhịp tim (rung nhĩ, cuồng nhĩ, nhịp nhanh kịch phát trên thất). Ở các bệnh này, máu dễ vón cục tạo cục máu đông trong tâm nhĩ, dẫn đến tắc mạch não gây đột quỵ. Do vậy, quan trọng là cần dùng thuốc để đề phòng cục máu đông (huyết khối)ở bệnh van tim.
Do giảm prothrombin ở trẻ em:Ngày nay, đột quỵ não có xu hướng trẻ hóa, phần nhiều do chính những yếu tố nguy cơ có thể thay đổi này. Như đã nói, may mắn là “nguy cơ có thể thay đổi” bởi chính chúng ta.
Thông tư quy định định mức kinh tế - kỹ thuật dịch vụ y tế dự phòng về lĩnh vực phòng, chống bệnh do ký sinh trùng, côn trùng tại cơ sở y tế công lập
Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành Thông tư số 05/2025/TT-BYT ngày 17 tháng 01 năm 2025 quy định định mức kinh tế - kỹ thuật dịch vụ y tế dự phòng về lĩnh vực phòng, chống bệnh do ký sinh trùng, côn trùng tại cơ sở y tế công lập. Thông tư này quy định định mức kinh tế - kỹ thuật dịch vụ y tế dự phòng về lĩnh vực phòng, chống bệnh do ký sinh trùng, côn trùng tại cơ sở y tế công lập.
Kế hoạch tăng cường công tác y tế đảm bảo đón Tết Nguyên Đán Ất Tỵ 2025
Sở Y tế tỉnh Quảng Ninh xây dựng Kế hoạch triển khai công tác y tế phục vụ Tết Nguyên đán Ất Tỵ 2025 diễn ra từ ngày 25/01/2025 đến hết ngày 02/02/2025, cụ thể như sau:
DỰ PHÒNG LÂY NHIỄM HIV, VIÊM GAN B, GIANG MAI TỪ MẸ SANG CON.
Hằng năm, trên thế giới tỉ lệ trẻ sinh ra bị nhiễm hoặc có nguy cơ lây nhiễm HIV, viêm gan B, giang mai từ mẹ khá cao. Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới, khu vực Tây Thái Bình Dương mỗi năm có khoảng 180.000 trẻ bị nhiễm viêm gan vi rút B, 13.000 trẻ bị nhiễm giang mai và 1.400 trẻ bị nhiễm HIV.
Phòng ngừa những bệnh thường gặp trong mùa đông xuân
Thời tiết đông xuân lạnh ẩm không chỉ tạo điều kiện cho các loại virus, vi khuẩn phát triển mà còn làm tăng nguy cơ bùng phát dịch bệnh, đặc biệt là các bệnh lây truyền qua đường hô hấp và tiêu hóa; thời điểm này thường diễn ra nhiều lễ hội, mọi người gia tăng tiếp xúc gần nên có nguy cơ bùng phát dịch bệnh càng cao. Mọi người cần trang bị một số kiến thức cơ bản về dịch bệnh mùa đông xuân như:
Hội nghị Tổng kết công tác phòng chống HIV/AIDS năm 2024, định hướng hoạt động năm 2025
Chiều ngày 30/12/2024, Sở Y tế Quảng Ninh tổ chức Hội nghị Tổng kết công tác phòng, chống HIV/AIDS tỉnh năm 2024 và triển khai nhiệm vụ 2025.
Bệnh sởi nguy hiểm như thế nào?
Bệnh sởi là một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở trẻ dưới 5 tuổi, có khả năng bùng phát thành dịch lớn do khả năng lây lan mạnh qua đường hô hấp.
Bộ Y tế khuyến cáo về bệnh sởi: Tiêm vắc xin là biện pháp hữu hiệu để phòng bệnh
Bệnh sởi chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, dễ lây lan qua đường hô hấp qua các giọt bắn của người mắc bệnh hoặc có thể qua tiếp xúc trực tiếp, qua bàn tay bị nhiễm dịch tiết của người bệnh.
Phường Hà Phong: Truyền thông, phổ biến kiến thức về chăm sóc sức khỏe người cao tuổi
Ngày 05/10/2024, Trạm Y tế phường Hà Phong, thành phố Hạ Long phối hợp với các tổ chức hội, đoàn thể tổ chức truyền thông, hướng dẫn chăm sóc sức khoẻ, kỹ năng phòng bệnh ở người cao tuổi tại các khu phố trên địa bàn.
Điều trị dự phòng sau phơi nhiễm HIV
Điều trị dự phòng sau phơi nhiễm với HIV (viết tắt là PEP) là dùng thuốc kháng HIV (thuốc ARV) cho những người bị phơi nhiễm với HIV. Việc điều trị sau phơi nhiễm cần được thực hiện càng sớm cáng tốt tốt nhất trong vòng 24 giờ và không muộn hơn 72 giờ sau phơi nhiễm. Phơi nhiễm có thể xảy ra trong môi trường nghề nghiệp và ngoài môi trường nghề nghiệp.
Đặt lịch hẹn tư vấn!
Chuyên gia của chúng tôi sẽ liên hệ trực tiếp với bạn.
- Thông tư quy định định mức kinh tế - kỹ thuật dịch vụ y tế dự phòng về lĩnh vực phòng, chống bệnh do ký sinh trùng, côn trùng tại cơ sở y tế công lập
- Hướng dẫn lựa chọn, bảo quản và tiêu dùng thực phẩm trong dịp tết nguyên đán Ất tỵ 2025
- Ngộ độc rượu và cách phòng tránh ngộ độc rượu
- Kế hoạch tăng cường công tác y tế đảm bảo đón Tết Nguyên Đán Ất Tỵ 2025
- DỰ PHÒNG LÂY NHIỄM HIV, VIÊM GAN B, GIANG MAI TỪ MẸ SANG CON.
- 8 cách phòng bệnh hô hấp khi trời lạnh